Phụng Vụ Lời Chúa cho Chúa Nhật XXI Thường Niên Năm C hôm nay liên quan đến phần rỗi vô cùng quan trọng của loài người. Vấn đề then chốt được một ai đó hỏi Chúa Giêsu, khi Người “rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem” rằng: "Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?".
Chúa Kitô đã không trực tiếp trả lời dứt khoát là nhiều hay ít, dù người đặt vấn nạn, theo chiều hướng và ý nghĩa của câu nghi vấn nhưng có tính cách khẳng định của người này, xu hướng về “ít” chứ không thể nào nhiều được. Cũng căn cứ chiều hướng của vấn nạn này thì người đặt câu hỏi không cho rằng “ít” người được rỗi là vì ơn cứu độ của Thiên Chúa vô cùng cao quí, nên “ít” người xứng đáng lãnh nhận và khó có thể lãnh nhận, ngoại trừ một số “ít” có thể lãnh nhận, do công khó của họ, điển hình nhất là thành phần luật sĩ và biệt phái Do Thái vẫn tự nhận mình là công chính!
Thế nhưng, câu kết của Bài Phúc Âm hôm nay là lời cảnh báo cho thành phần tự nhận mình là công chính, tưởng rằng ơn cứu độ là do tự sức mình mà được, hơn là do Thiên Chúa ban cho những ai tin tưởng vào Ngài: “có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết".
“Người sau hết trở nên trước hết” đây là ai, nếu không phải là một người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện, không dám ngước mắt lên, chỉ biết đấm ngực ăn năn thống hối, chân nhận mình là một tội nhân đáng thương, nên khi ra về đã trở nên công chính, trong khi đó, người biệt phái nghênh ngang trong đền thờ, chẳng những khoe khoang đủ thứ về công trạng của mình, mà còn tỏ ra khinh bỉ người khác: “tôi không phải như tên thu thuế kia”, nên cuối cùng người biệt phái lên đến thờ cầu nguyện này đã thuộc về hạng của “những người trước hết nên sau hết”.
Thật vậy, đúng như lời Chúa Giêsu khẳng định ở cuối Bài Giảng Trên Núi được Phúc Âm Thánh Mathêu ghi lại ở đoạn 7, thì “không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời… mà là làm theo ý Thiên Chúa”. Bởi vậy, thành phần tự coi mình là công chính, tưởng rằng nhờ đó mà họ có quyền “xin mở cửa cho chúng tôi”, lại không ngờ bị hoàn toàn phủ nhận và ruồng bỏ: “Chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi từ đâu tới'”.
Cho dù bấy giờ họ có nại lý do việc lành phúc đức của mình: “’Chúng tôi đã ăn uống trước mặt ngài và ngài đã giảng dạy giữa các công trường chúng tôi'. Nhưng chủ sẽ trả lời các ngươi rằng: 'Ta không biết các ngươi tự đâu mà tới, hỡi những kẻ làm điều gian ác, hãy lui ra khỏi mặt ta'. Khi các ngươi sẽ thấy Abraham, Isaac, Giacóp và tất cả các tiên tri ở trong nước Thiên Chúa, còn các ngươi bị loại ra ngoài, nơi đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng. Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’”.
Đúng thế, thành phần tưởng mình là ngon lành, tưởng mình thuộc về số “ít” được rỗi này, như Chúa Kitô ám chỉ trong Bài Phúc Âm hôm nay: "Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi biết: nhiều người sẽ tìm vào mà không vào được”. Họ chính là những người “tìm vào (ở chỗ giữ luật) mà không vào được (ở chỗ tự công chính hóa)”, hơn là tin vào Đấng ban ơn cứu độ cho họ. Và đó cũng chính là “cửa hẹp” họ cần phải “vào qua”, nghĩa là họ cần phải hoàn toàn tin tưởng vào một mình Chúa hơn là tự phụ vào bản thân mình, một lòng tin tưởng biến họ trở thành bé nhỏ, hèn mọn đáng thương trước nhan Chúa, trước Lòng Thương Xót Chúa, như người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện.
Vì ơn cứu độ là của Chúa và do chính Chúa ban, chứ không phải của riêng ai và do công lênh của ai, nên ơn cứu độ có tính cách phổ quát (universal), tính cách công giáo (catholic), nhất là đối với những ai tin vào Ngài, dù họ là dân Do Thái đã từng được Chúa mạc khải trong suốt giòng lịch sử cứu độ, hay dân ngoại, như Chúa Kitô đã khẳng định và tiên báo trong Bài Phúc Âm hôm nay: “người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa’”. Bởi thế, không phải tất cả dân ngoại đều hư đi, chỉ có dân Chúa mới được cứu độ, vì được Ngài tuyển chọn và tỏ mình ra cho hơn các dân ngoại khác.
Do đó, dù là dân Do Thái, hay Kitô hữu đã lãnh nhận phép rửa và thuộc về Kitô trong Giáo Hội, họ cũng chưa chắc được cứu độ, nếu họ không trung thành với đức tin của họ, không sống đúng với những gì họ tin tưởng, trong việc từ bỏ con người cũ là bản thân đã vướng mắc nguyên tội của họ, và mặc lấy con người mới là Đức Kitô, biết chấp nhận làm theo ý Cha trên trời trong hết mọi sự và cho đến cùng.
Nhờ đó, khi bị thử thách đức tin bởi Thiên Chúa, họ có thể chẳng những không nản mà còn gia tăng đức tin hơn bao giờ hết, đúng như những gì Kitô hữu giáo đoàn Do Thái được khuyên nhủ trong Bài Đọc 2 hôm nay:
“Anh em thân mến, anh em đã quên lời yên ủi tôi nói với anh em, như nói với những người con rằng: ‘Hỡi con, con chớ khinh thường việc Chúa sửa dạy, và đừng nản chí khi Người quở trách con; vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con’. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt. Ngày nay, hẳn ai cũng coi việc sửa dạy là nỗi buồn khổ, hơn là nguồn vui, nhưng sau này, nó sẽ mang lại hoa quả bình an công chính cho những ai được sửa dạy”.
Một khi ý thức được ơn cứu độ vô cùng cao quí Chúa ban, cho chung loài người, bao gồm cả bản thân mình, chứ không phải chỉ ban cho bản thân mình thôi, và phần rỗi vô cùng quan trọng của con người, thì chúng ta không thể nào không cùng với toàn thể nhân loại nói chung và dân ngoại nói riêng, vang lên tâm tư của Bài Đáp Ca hôm nay:
1) Toàn thể chư dân, hãy khen ngợi Chúa! Hết thảy các nước, hãy chúc tụng Người.
2) Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời.